Cuộc đời, số phận mỗi con người chẳng khác chi một canh bạc. Ai may mắn đặt trúng cửa thì cuộc sống là thiên đường, còn ai đặt nhầm cửa cuộc sống ấy sẽ là con đường dẫn tới địa ngục. Vẫn biết cuộc đời là may rủi nhưng ai cũng muốn một lần đặt cược cho số phận của mình để tìm kiếm “vận may”.
Ông trời đã cho Nhi nhan sắc hơn người, đáng lẽ ra phải cho cô ấy một cơ may sẵn có chứ không nên bắt người ta phải bước đi chân trần trên con đường có quá nhiều gập ghềnh sỏi đá. Cô giống như một chiếc bánh bao mới ra lò nóng hôi hổi, thơm phức, ai thấy cũng muốn ăn nên từ khi nhập trường, Nhi đã trở thành tâm điểm được mọi người chú ý.
Ngay từ nhỏ, cô đã được giáo dục để trở thành người phụ nữ truyền thống, cười nói nhỏ nhẹ có duyên, ăn mặc luôn “kín cổng cao tường” để giữ an toàn cho đức hạnh. Cô sống trong KTX, một phòng có tới cả chục con người đến từ khắp các vùng miền và có đủ mọi loại tính cách khác nhau nên cuộc sống có phần phức tạp hơn những gì Nhi tưởng tượng trước lúc nhập trường.
Một năm học đầu tiên lặng lẽ trôi qua không lăn tăn một gợn sóng lòng khiến cho cô mất ngủ. Đến năm thứ hai, các bạn trong phòng lần lượt có người yêu và ngang nhiên thể hiện tình yêu nồng cháy ngay trong phòng. Ai tế nhị hơn một chút thì họ quây cho mình một góc trời riêng bằng mảnh ri đô mỏng như giấy bản rồi mặc sức âu yếm nhau như ở chỗ chỉ có hai người.
Một trinh nữ với trái tim thuần khiết như Nhi thì việc phải chứng kiến những cảnh ấy khiến cho đôi mắt của cô không dám hé mở dù chỉ để nhìn trộm. Mới đầu, Nhi hay lánh qua thư viện đọc tài liệu, đến giờ thư viện đóng cửa thì xuống ghế đá trong khuôn viên của trường ngồi học bài.
Một tuần, một tháng thì tránh được chứ một năm thì không ai có đủ kiên nhẫn. Nhi dần mất cảm giác với những “cảnh nóng” không được viết sẵn trong kịch bản. Cô mặc kệ họ muốn làm gì thì làm, còn việc mình mình tự liệu.
Trong số những người đang yêu ấy có đôi thì nhận rõ hạnh phúc đang tràn phè cả ra ngoài, nhưng cũng có đôi thì thỉnh thoảng lại thấy mặt mày bầm rập. Có hỏi thì người ta lại nói dối là ngã, tuy bị đánh ra nông nỗi ấy nhưng họ vẫn không bỏ được nhau.
Nhi tự đặt cho mình câu hỏi: “Yêu là gì mà sao có người cam tâm chịu khổ chỉ vì yêu? Có người khi yêu đã bị đánh tím cả mặt mũi mà vẫn không thể dứt bỏ cứ y như bị gắn bằng keo con voi vậy. Yêu gì mà kì lạ thế chứ?”.
Đã có lần cô hỏi bạn: “Mới yêu mà đã bị đánh thì khi lấy nhau rồi biết phải làm sao?”. Bạn cô đã cười cho cái sự trong trắng đến tội nghiệp của Nhi: “Cậu tưởng tình yêu chỉ có hoa hồng đỏ cắm trong bình pha lê thôi sao, còn có cả hoa hồng được nặn bằng đất và cắm trong ống tre nữa đấy. Tình yêu cũng có nhiều chủng loại, có tình yêu bằng phẳng, có tình yêu gập ghềnh, cũng có cả những tình yêu trong bạo lực và mình thuộc loại thứ ba”.
Tình yêu thật khó hiểu và không ai lý giải nổi. Nhi không đố kị với mọi người nhưng thật lòng cô muốn thử, muốn nếm trải cái cảm giác mạo hiểm khi phải đánh đu với tình yêu để níu giữ cái nửa kia của mình.
Nhi đã nhận lời yêu Kiên, một anh chàng tỉnh lẻ nhưng tiền trong túi thì chưa bao giờ lẻ. Cậu là con “độc” của một quan chức ngoại tỉnh nên khi cậu ấm đỗ đại học phải sống xa nhà thì ngay lập tức được mua xe đẹp, điện thoại đẹp và một căn nhà nhỏ nhưng khá đẹp. Giờ chỉ cần kiếm thêm một người đẹp cho đủ bộ sưu tập.
Kiên sống một mình nên khá tự do, ngoài tầm kiểm soát của phụ huynh. Bố mẹ cậu thì muốn cho con mình bằng bạn bằng bè nên không tiếc gì, chỉ cần kêu hết tiền tổ chức sinh nhật thì ngay lập tức trong thẻ ATM của cậu có vài triệu mẹ gửi cho.
Nhi yêu Kiên bằng mắt nên khi bốn mắt vừa nhìn nhau thì tim cô đã đập thình thịch và vui suốt cả ngày, nghĩa là cô đã phải lòng Kiên ở cái vỏ hào nhoáng bên ngoài, còn Kiên cũng bị hớp hồn bởi vẻ đẹp truyền thống và kín đáo của Nhi.
Cô nhận lời về sống cùng Kiên cho “đỡ nhớ” và khi cần là có thể gặp nhau ngay. Những ngày đầu sống trong tình yêu, Nhi thực sự bị choáng ngợp bởi tình yêu Kiên dành cho cô quá nồng nhiệt, có đôi lúc cô thấy sợ. Sợ vì không giữ được mình thì “người ta” không còn tôn trọng nữa, sợ vì khi “con ong đã tỏ đường đi lối về” thì nó sẽ bay đi tìm loài hoa khác quyến rũ hơn. Nhưng không “cho” thì lại sợ không chứng tỏ được tình yêu.
Nhi sống trong cái mớ hỗn lộn như tơ vò ấy, đấu tranh với chính mình mãi cô cũng không biết “cho hay không cho”, có nên vượt đèn đỏ hay dừng lại đúng vạch quy định mới là không sai.
Sau những ngày “xin mãi không cho”, Kiên bắt đầu thấy chán, cậu không còn thường xuyên đưa Nhi đi dạo phố, ăn kem, uống cà phê và đến nơi hai người hò hẹn. Ngoài giờ lên lớp học, Nhi cặm cụi cần mẫn chăm sóc Kiên như một người vợ. Cô lo thay đổi món ăn cho Kiên ngon miệng, lo giặt giũ, là quần áo cho khỏi có nếp nhăn, đánh giày cho bóng nhoáng đến kiến cũng có thể soi gương..., nhưng Nhi đã phải đối diện với những bữa cơm lạnh ngắt vì chờ đợi.
Thói quen đó đã ngấm sâu trong tâm tưởng Nhi như một bài học đạo đức “làm vợ” của một người phụ nữ. Cô càng giữ gìn bao nhiêu thì Kiên càng “phung phí” bấy nhiêu, cho đến khi Nhi hao gầy vì chờ đợi, còn sức khỏe của Kiên sa sút vì ăn chơi “quá đà”. Cậu thường xuyên đi sớm về khuya trong thân xác mệt mỏi rã rời, cơm không thèm ăn, bẩn không thèm tắm.
Đến khi cô tình cờ bắt gặp trong ví của Kiên có vài viên thuốc màu hồng, cô không biết rõ đó là hồng phiến hay thuốc lắc nhưng chắc chắn đó là độc dược Kiên đã dùng trong những chuyến “bay đêm”.
Khi cô biết Kiên đã bị nghiện ma túy cô cũng muốn vứt bỏ để một mình thoát ra khỏi vũng lầy đau khổ ấy thì Kiên đã quỳ xuống năn nỉ: “Xin hãy cứu anh, anh biết mình sai rồi. Anh sẽ không bao giờ để cho em phải đợi cơm nữa...”.
Cô đã không thể cứng rắn trước những giọt nước mắt của đàn ông. Nếu cứ lặng lẽ bỏ đi thì Nhi là kẻ vô tình, còn quay lại để tiếp tục đi trên con đường ấy thì cô lại chấp nhận về mình sự hy sinh quá lớn. Lựa chọn con đường ấy “có đáng không?”, Nhi cũng đã từng tự hỏi mình như thế.